Nhã nhạc Trung Hoa Cổ nhạc Trung Hoa

Cổ nhạc Trung Hoa
Tên tiếng Trung
Phồn thể雅樂
Giản thể雅乐
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữyǎyuè
Gwoyeu Romatzyhyeayueh
Wade–Gilesya3-yüeh4
IPA[jà.ɥê]
Tiếng Quảng Châu
Yale la tinh hóangáah-ngohk
Việt bínhngaa5-ngok6
Tiếng Mân Nam
Tâi-lôngá-ga̍k
Tiếng Hán trung cổ
Tiếng Hán trung cổngǽ-ngæ̀wk
Tiếng Hán thượng cổ
Baxter–Sagart (2014)*N-ɢˤraʔ [ŋ]ˤrawk
Tên tiếng Việt
Tiếng Việtnhã nhạc
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
아악
Phiên âm
McCune–Reischauera-ak
Tên tiếng Nhật
Kanji雅楽
Chuyển tự
Rōmajigagaku
Tranh vẽ một buổi biểu diễn nhã nhạc thời nhà Tống

Tại Trung Quốc, "Nhã nhạc" biết đến với tên gọi "yǎ yuè". Yǎ yuè là chữ phiên âm cách đọc của "雅 樂", dịch sang âm Hán Việt là "Nhã nhạc". Từ Hải tự điển, giải thích rõ từ này như sau, nhã nhạc là "đối xưng" của "tục nhạc". Là loại nhạc vũ mà các vị Đế vương của Trung Quốc cổ đại dùng để tế tự trời đất, tổ tiên và trong các dịp Triều hạ, yến hưởng. Thời Chu dùng làm lục vũ của nhạc Tông Miếu, Nho gia cho rằng âm nhạc này "trung chính hòa bình", ca từ "khúc nhã thuần chính", nên lấy nó làm điển phạm của nhã nhạc. Các nhà thống trị phong kiến các đời, sau khi giành được chính quyền, đều tác nhã nhạc theo thông lệ để ca tụng công đức của triều đại mình".

Như vậy, Nhã nhạc là nhạc khúc trong Cung đình. Truy nguyên nguồn gốc của thuật ngữ này, ta hãy tìm về với thời đại phong kiến Trung Quốc khi mà tư tưởng "dĩ nhạc trị quốc" của Nho gia còn thịnh hành. Tại đây, ta thử đặt câu hỏi: Vì sao nhã nhạc lại được dùng trong trị quốc? Thực ra, thời bấy giờ Nho gia rất tôn sùng lễ chế của Triều Chu. Lễ chế của Triều Chu chú trọng đến phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị phong kiến và chủ nô. Vì thế, ý nghĩa chủ yếu của "nhạc" chính là công cụ giáo hóa con người và thống trị con người. Những loại nhạc thể hiện tình cảm trai gái, những âm thanh thút thít, buồn sầu làm ảo não lòng người, bị Nho gia xem là "dâm thanh", "loạn thế chi âm", "vong quốc chi âm", chỉ có Nhã nhạc với "chính thanh" phù hợp với luật lữ mới xứng đáng được tôn sùng, xứng đáng để giai cấp thống trị phong kiến các thời đại của Trung Quốc chọn dùng làm tín điều trong trị quốc.

Nhã nhạc Trung Quốc sử dụng hầu hết nhạc cụ thuộc dàn bát âm (tiếng Trung: 八音; bính âm: Bā yīn). Theo cổ nhân quan niệm, chịu sự ảnh hưởng của Hán hóa, bát âm là tám chất liệu âm thanh gọi chung cho tám chủng loại nhạc cụ khác nhau, đại diện cho âm nhạc (cổ truyền).

Tám loại đó là:

Thạch- Thổ- Kim- Mộc- Trúc- Bào- Ti- Cách.

Tương ứng với Bát quái:

Cấn- Khôn- Đoài- Chấn- Khảm- Tốn- Ly- Càn.

(Xem Danh sách nhạc cụ cổ truyền Trung Quốc để biết thêm chi tiết).

Người sáng tạo ra thể loại nhã nhạc Trung Quốc và phát triển nhạc cụ bát âm là Tăng Hầu Ất. Lăng mộ của ông còn để lại vô số những sản vật trong dàn nhạc bát âm nhưbiên chung (dàn chuông đá) được khai quật vào năm 1978, thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Bộ chuông được tạo thành từ 65 chiếc chuông làm bằng đồng được treo trên 3 tầng giá gỗ. Chiếc chông nặng nhất khoảng 204 kg và cao 1.5m, tổng trọng lượng của dàn chuông này khoảng 5 tấn; đàn sắt là một nhạc cụ rất phổ biến trong thời Tây Chu và thời Xuân Thu. Các mẫu vật còn sót lại đã được khai quật từ những nơi như tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam và khu vực Giang Nam của Trung Quốc. Những nơi khác bao gồm Giang Tô, An Huy, Sơn Đông và Liêu Ninh. Ở Hồ Bắc,lăng mộ của Tăng Hầu Ất (cuối thập niên 400 trước Công nguyên) là một kho báu của các nhạc cụ cổ xưa của Trung Quốc, bao gồm một bộ hoàn chỉnh của biên chung (chuông đồng), đàn sắt và đàn cổ cầm, chuông đá (biên khánh) và trống.

Đoàn tùy tùng âm nhạc của ông gồm 21 cô gái và phụ nữ cũng được chôn cất cùng ông. Vào thời Chiến Quốc, các loại đàncổ tranh ban đầu đã xuất hiện, được phát triển từ đàn sắt.

Tiếp sau đó, dàn bát âm Trung Quốc còn có những loại nhạc cụ khác như đàn tỳ bà, đàn nguyễn, liễu cầm (nhỏ hơn tỳ bà), kèn quản tử, kèn bầu, sanh,...Theo truyền thống, nhã nhạc được tạo ra bởi Chu công Đántheo ủy ban từ Chu Vũ vương, ngay sau cuộc chinh phạt của nhà Thương. Được kết hợp trong yayue là các yếu tố của truyền thống đạo sĩ hoặc tôn giáo, cũng như âm nhạc dân gian đầu tiên của Trung Quốc. Khiêu vũ cũng được kết hợp chặt chẽ với âm nhạc nhã nhạc, mỗi tác phẩm nhã nhạc có thể có một điệu múa nghi lễ hoặc nghi lễ liên quan đến nó. Phần nhã nhạc quan trọng nhất của triều đại Chu là Sáu điệu múa vĩ đại, mỗi điệu được liên kết với một nhân vật huyền thoại hoặc lịch sử - Vân môn Đại quyển (雲門大卷), Đại hàm (大咸), Đại Khánh (大磬 hoặc Đại thiều 大韶), Đại hạ (大夏) và Đại hoạch (大 濩), Đại vũ (大武).

Theo Kinh Lễ ghi lại một số tình tiết trong đó nhã nhạc có thể được thực hiện. Chúng bao gồm các nghi lễ để tôn vinh Thiên đường và Trái đất, các vị thần hoặc tổ tiên. Cũng có những quy tắc chi tiết về cách chúng được thực hiện tại các cuộc họp ngoại giao. Nhã nhạc cũng được sử dụng trong các hoạt động ngoài trời, như các cuộc thi bắn cung quý tộc, trong các cuộc thám hiểm săn bắn, và sau khi kết thúc một chiến dịch quân sự thành công. Nhã nhạc Trung Quốc được đặc trưng bởi sự cứng nhắc của hình thức. Khi được thực hiện, nó trang nghiêm và trang trọng, phục vụ để phân biệt các lớp quý tộc. Nó đôi khi cũng đi kèm với lời bài hát. Một số trong số này được bảo quản trong Kinh Thi.

Với sự suy giảm của buổi lễ quan trọng trong các mối quan hệ giữa thời Xuân Thu, nhã nhạc cũng vậy. Khổng Tử nổi tiếng than thở về sự suy tàn của âm nhạc cổ điển và các nghi thức. Ngụy Văn hầu được cho là thích âm nhạc nổi tiếng của nước Ngụynước Trịnh với âm nhạc cung đình cổ xưa, nghe nó có thể ngủ thiếp đi.

Nói tới những bản nhạc thuộc dàn bát âm trong nhã nhạc Trung Hoa không thể không nhắc đến hai tác phẩm là Cao sơn lưu thủy (高山流水) và Quan sơn nguyệt (关山月), phổ thơ của Lý Bạch. Hai bản nhạc này được diễn tấu bằng cổ cầm, riêng Quan sơn nguyệt cũng được chơi với dàn nhạc bát âm và là hai nhạc phẩm nổi tiếng trong Thập đại danh khúc.

Liên quan